Chưa phân loại

Tìm hiểu tổng quan về nghề nuôi cừu

Nuôi cừu hay chăn nuôi cừu là việc thực hành chăn nuôi các giống cừu nhà. Đây là một bộ phận trong chăn nuôi gia súc. Cừu được chăn nuôi để lấy các sản phẩm quan trọng như thịt cừu, sữa cừu,lông cừu, da cừu và các sản phẩm khác. Đây là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da. Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con. Cừu vẫn là một loại gia súc cung cấp thịt và lông quan trọng cho đến ngày nay, và người ta cũng lấy da, sữa và động vật cho nghiên cứu khoa học. Cừu là một trong số ít động vật được nuôi để lấy thịt,thịt cừu là một thực phẩm phổ biến ở nhiều nước châu Âu, châu Mỹ và châu Á, ở những vùng thảo nguyên.

Giống như tất cả các động vật nhai lại, cừu là các thành viên của bộ Artiodactyla, các động vật có móng guốc, ngay cả ngón . Mặc dù cái tên “con cừu” áp dụng cho nhiều loài trong chi Ovis , trong việc sử dụng hàng ngày nó hầu như luôn luôn đề cập đến aries Ovis. Thường thì một con cừu cái lớn được gọi là cừu, một con cừu đực  lớn được gọi là trừu đực và một con cừu nhỏ gọi là cừu con.

Cừu có nguồn gốc từ tự nhiên của châu Âu và châu Á. Một trong những động vật đầu tiên được thuần hóa với mục đích nông nghiệp.

Là một con vật quan trọng trong lịch sử nông nghiệp, cừu có chỗ ăn sâu trong văn hóa của con người. Con cừu có trong nhiều thần thoại như Golden Fleece và tôn giáo lớn, đặc biệt là Abraham truyền thống. Trong cả hai nghi lễ tôn giáo cổ xưa và hiện đại, cừu được sử dụng làm vật tế thần.

Tổng Quan Nghề Nuôi Cừu

Cừu nuôi hiện nay có nguồn gốc xa xưa từ những loài cừu núi ở Iran và vùng bắc Ấn Độ. Tới nay, nó được nuôi suốt từ Bắc Âu tới tận các vùng nhiệt đới. Cừu là loài dễ nuôi, khả năng tận dụng thức ăn rất cao, chịu đựng kham khổ và chống chịu bệnh tật tốt. Khối lượng cừu trưởng thành khá lớn, con đực đạt 52 kg, con cái đạt 35 kg, tỷ lệ thịt xẻ hay tỷ lệ xẻ thịt của chúng đạt 40 – 43% (trung bình lên tới 41,62%), tỷ lệ thịt tinh (thịt lọc) đạt 28,62% – 30%. Thị trường thịt cừu lại rộng mở, luôn hút hàng, giá mỗi kg thịt cừu hơi ở một số nơi hiện nay như Việt Nam cũng vào khoảng 40.000 – 45.000đ/kg. So với dê, hàm lượng các chất dinh dưỡng ở thịt cừu không thua kém. Thịt cừu ngon, giàu chất dinh dưỡng lại ít mỡ, hàm lượng cholesteron thấp cộng thêm tâm lý cừu chỉ ăn cỏ nên sạch vì thế thịt cừu đang được người tiêu dùng nhiều nơi lựa chọn.

Một số giống cừu có khối lượng trưởng thành khá lớn, con đực đạt 52 kg tỷ lệ xẻ thịt chúng đạt 40 – 43%

Cừu có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Cừu cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc, ít bệnh tật, chuồng trại lại đơn giản và rẻ tiền, việc chăn thả cũng rất đơn giản, buổi sáng thả ra để chúng lên núi kiếm ăn, đến tối mới lùa về chuồng, chúng còn thích nghi với mọi địa hình từ đồng bằng đến vùng đồi núi, chẳng hạn ở Ninh Thuận là vùng khô và nóng nhất, ở đây nóng nhưng cừu không biết nóng, ngay giữa trưa nắng oi bức thế nhưng những con cừu vẫn tha thẩn tìm những ngọn cỏ hiếm hoi, cả đàn cừu vẫn lặng lẽ, kiên trì kiếm ăn giữa trời nắng nóng như thiêu đốt.

Cừu có thính giác tốt, và rất nhạy cảm với tiếng ồn khi được xử lý. Cừu sở hữu tuyệt vời tầm nhìn ngoại vi, với các lĩnh vực thị giác của khoảng 270° đến 320°, cừu có thể nhìn ra phía sau mà không cần quay đầu. Nhiều giống chỉ có mái tóc ngắn trên mặt, và một số có len mặt (nếu có) chỉ giới hạn hoặc các khu vực của góc hàm dưới; các góc rộng tầm nhìn ngoại vi áp dụng đối với các giống này. Một vài giống có xu hướng có len đáng kể trên khuôn mặt; đối với một số cá nhân thuộc các giống, tầm nhìn ngoại biên có thể được giảm đáng kể bằng cách “mù len”, trừ khi vừa cạo về khuôn mặt. Cừu có nhận thức siêu kém. Nói chung, cừu có xu hướng di chuyển ra khỏi bóng tối và vào các khu vực đủ ánh sáng, và thích di chuyển khi bị quấy rầy. Cừu có tuyến mùi hương ngay trước mắt, và interdigitally trên bàn chân. Mục đích của các tuyến này là không chắc chắn, nhưng là trên mặt có thể được sử dụng trong các hành vi sinh sản. Các tuyến bàn chân cũng có thể liên quan đến sinh sản, nhưng thay thế lý do, chẳng hạn như bài tiết của một sản phẩm chất thải hoặc một dấu hiệu mùi hương để giúp cừu tìm bầy của họ.

So với chăn nuôi bò thì cừu là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của cừu rất đa dạng, thức ăn của cừu là những loại không cạnh tranh với lương thực của người, thậm chí, nó còn ăn cả những loại mà không loài nào ăn được ví dụ như xương rồng có trong thiên nhiên hoang dã. Nhìn chung, thức ăn chủ yếu là cỏ và cây bụi, chúng ăn được nhiều loại cây cỏ, chúng ăn cả thức ăn thô xanh (như các loại cỏ, các loại lá cây…), thức ăn thô khô (như các loại cỏ khô) cùng các loại thức ăn ủ chua, thức ăn củ quả các loại phụ phẩm của công nghiệp thực phẩm. Vào mùa khô, có thể cho cừu ăn thêm thức ăn tinh (như cám, bột ngô, bột mì…). Tuy nhiên, thức ăn thô vẫn là chủ yếu. Cừu là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầy hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều, chúng là động vật nhai lại, an toàn hơn chăn thả gia súc, vì chúng phải hạ thấp đầu trong khi ăn nên dễ bị các động vật ăn thịt tấn công, trong khi nhai lại thì không.

Cừu có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho cừu như cỏ, Họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của cừu trong mùa đông là cỏ khô. Khả năng phát triển tốt của chúng thường trên các đồng cỏ tùy theo giống, như tất cả cừu có thể tồn tại theo chế độ ăn này. Trong một số khẩu phần ăn của cừu cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít. Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của cừu. Lượng nước cần cho cừu biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi cừu ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi cừu ăn vào sáng sớm), cừu cần ít nước hơn. Khi cừu ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Cừu cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn.

Chỉ có một số cừu thường xuyên cho ăn ngũ cốc nồng độ cao, ít giữ trong trại. Đặc biệt ở các quốc gia công nghiệp hóa, các nhà sản xuất cừu có thể vỗ béo cừu trước khi giết mổ. Nhiều nhà nhân giống cừu cho cừu cái ăn với một tỷ lệ lớn ngũ cốc nhằm tăng sự thụ tinh. Cừu cái có thể được vỗ béo trong thời kỳ mang thai làm tăng trọng, 70%tăng trưởng của cừu xảy ra trong 5 đến 6 tuần cuối của thai kỳ. Ngược lại, chỉ khi cừu cái cho con bú hoặc cừu ốm yếu cần vỗ béo thì mới cho ăn ngũ cốc.Thức ăn cho cừu phải được tính theo công thức đặc biệt, như hầu hết gia súc, gia cầm, heo, và thậm chí là dê, thức ăn chứa nhiều đồng có thể gây chết cừu.
Cừu đẻ trung bình 1,55 lứa/năm. Mỗi lứa được 1-2 con, cũng có con đẻ 3 con/lứa, sinh sản tập trung trong thời gian ngắn, tính trung bình, mỗi năm cừu sinh sản 2 lứa, mỗi lứa chỉ có 1 con, nhưng sinh sản tập trung trong thời gian ngắn. Khi đẻ là đẻ đồng loạt nên không tốn nhiều công chăm sóc con nhỏ. Cừu là gia súc có thời gian sinh trưởng rất nhanh, chỉ sau 8 – 9 tháng là bắt đầu sinh. Còn nuôi thương phẩm thì chỉ 5 – 7 tháng đạt trọng lượng khoảng 20 kg là có thể xuất bán. Cừu đực phải nhốt riêng, 8-9 tháng tuổi mới cho chúng phối giống. Nếu phối tự do, một cừu đực có thể đảm nhận cho 20-30 cừu cái. Còn nếu phối giống có kiểm soát thì nó còn có thể phụ trách tới 40-50 cừu cái. Các loại dịch bệnh trên cừu cũng rất ít. Bệnh thường gặp là tụ huyết trùng, viêm phổi, nhiễm trùng máu… thường xuất hiện khi thời tiết chuyển mùa và trong mùa mưa, nếu phát hiện sớm là chữa trị dứt điểm.

Cừu so với dê

Cừu và dê có liên quan chặt chẽ như cả hai đều trong phân họ caprinae. Tuy nhiên, chúng là những loài riêng biệt, vì vậy việc lai giống giữa hai loài thường rất hiếm và đời sau thường hay vô sinh. Một lai của một cừu cái và một buck (một con dê đực) được gọi là cừu lai dê (chỉ có một con vật đó đã được xác nhận), và không nên nhầm lẫn với các điều hão huyền cừu dê, mặc dù cả hai đều được gọi là “geep”. Sự khác biệt về quan điểm giữa cừu và dê có bộ râu dê và chia môi trên của con cừu. Đuôi cừu cũng treo xuống, ngay cả khi ngắn hoặc cập cảng, trong khi đuôi ngắn của dê được tổ chức trở lên. Giống cừu cũng thường tự nhiên thăm dò ý kiến (hoặc ở cả hai giới, hoặc chỉ ở nữ), trong khi dê được hỏi tự nhiên là rất hiếm (mặc dù nhiều người được thăm dò ý kiến nhân tạo). Con đực của hai loài khác nhau ở chỗ dê buck thu được một mùi độc đáo và mạnh mẽ, trong khi trừa đực thì không.

Tình Hình Chung

Tại úc : Là một quốc gia sở hữu hơn 100 triệu con cừu. Nước này đã cho xây Dingo Fence hay hàng rào chống chó Dingo để ngăn chó Dingo khỏi phá hoại mùa màng cũng như đàn cừu ở phía nam Queensland. Vào đầu thế kỷ 21, người ta ước tính có khoảng 120 triệu con cừu ở Australia. Do những ảnh hưởng của hạn hán và nhu cầu sử dụng lông cừu giảm, số lượng cừu cũng đi xuống và hiện còn khoảng 100 triệu. Con số này gần gấp 5 lần dân số của Australia vốn chỉ có hơn 20 triệu người. Australia nổi tiếng thế giới bởi số lượng và chất lượng các sản phẩm từ lông cừu.

Ngành công nghiệp thịt cừu ở Úc từ đó phát triển nhưng thăng trầm. Trong vòng nhiều năm qua đã có một sự thay đổi đáng kể giữa nguồn cừu và hoa màu trong các nông trại ở Úc bởi vì thu nhập của việc trồng ngũ cốc cao hơn thu nhập qua việc nuôi cừu. Nông dân Úc cũng chuyển sang nuôi bò vì giá thịt bò tăng cao sau năm 1998. Trong những năm gần đây, giá len, thịt cừu và cừu nguyên con đã tăng trở lại. Số lượng cừu của Úc đã giảm sút trên một phần ba trong vòng 15 năm qua, từ mức cao điểm là 173 triệu con vào năm 1990. Theo sự giảm sút của đàn cừu, số lượng thịt cừu đã từ đỉnh điểm là 395.000 tấn vào năm 1991 giảm xuống còn 297.000 tấn vào năm 2002. Năm 1992 chỉ có 30% người sản xuất len bán cừu cho các lò mổ thì đến năm 2002 tỉ lệ này đã tăng lên 47%.

Năm 2002 có khoảng 18.900 nông trại ở Úc nuôi cừu chất lượng cao. Trong số này có khoảng 7.900 nông trại thuộc dạng chuyên môn, đã thu được 20% lợi nhuận của toàn nông trại trong việc bán cừu chất lượng cao. Ngoài ra còn có 20.400 các nông trại khác, mỗi nông trại có hơn 200 con cừu, sản xuất len, thịt cừu và cừu nguyên con, nhưng không có cừu chất lượng cao. Loại cừu chất lượng cao này chủ yếu được nuôi ở miền Nam nước Úc và các vùng có lượng mưa nhiều tại New South Walesvà Victoria. Nhìn chung, những nhà nuôi cừu chất lượng cao chuyên nghiệp chiếm một diện tích nông trại chỉ bằng nửa những người không chuyên, có số lượng cừu ít hơn và trồng tỉa hoa màu ít hơn. Tuy nhiên những nông trại này có số lượng cừu cái nhiều hơn, với số lượng sinh nở cao hơn 13% và bán cừu với giá cao hơn 10% so với những người không chuyên.
Chăn Nuôi cừu ở Úc

Thị trường nội địa về cừu là quan trọng đối với Úc, chiếm tỉ lệ 68% cừu nguyên con và 34% thịt cừu vào năm 2002. Trong thập kỷ vừa qua, lượng cừu xuất khẩu đã tăng gấp 3 lần, lên đến trên 124.000 tấn vào năm 2001, nhưng đến năm 2002 trận hạn hán đã làm giảm sút 12%, còn 109.700 tấn. Thị trường chính để xuất khẩu cừu bao gồm Mỹ, Papua New Guinea, khối Liên minh Châu Âu, các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nhật Bản và Nam Phi. Trong số những thị trường này, Mỹ và khối Liên minh Châu Âu là những thị trường có giá trị lớn.

Trong khi lượng cừu xuất khẩu sang Nhật Bản và Nam Phi đã giảm xuống còn một nửa kể từ năm 1994, số lượng xuất khẩu sang Mỹ, Ả Rập Saudi và Đài Loan đã gia tăng đáng kể. Một ngành công nghiệp chuyên môn đã phát triển để hỗ trợ cho việc xuất khẩu cừu sống, chủ yếu sang Trung Đông với số cừu xuất xứ chính từ miền Tây Úc, Nam Úc và Victoria. Lượng cừu sống xuất khẩu cũng gia tăng trong thập kỷ 1990, đạt đến mức kỷ lục là 6,8 triệu con vào năm 2001, nhưng lại giảm xuống còn 6,1 triệu con vào năm 2002. Những thị trường lớn vào năm 2002 là Kuwait, các Tiểu vương quốc Ả Rập, Jordan, Oman và Bahrain. Ả Rập Saudi trở lại là một thị trường lớn từ năm 2000, với lượng xuất khẩu vào năm 2002 là 1,9 triệu con.

Từ năm 1992 đến năm 2002 số lượng cừu ở Úc bị giảm 32%. Trận hạn hán khắp cả nước vào năm 2002-2003 đã góp thêm phần làm cho số cừu này sụt giảm. Số lượng cừu giảm từ tháng 6 năm 2002 đến tháng 6 năm 2003 là 6 triệu con, làm cho số lượng cừu của cá nước chỉ còn 97 triệu con con số thấp nhất tính từ năm 1946. Thu nhập về cừu và len vẫn là một nguồn quan trọng trong tổng thu nhập của nông dân Úc. Có trên 50% nông dân có tỉ lệ thu nhập từ 40% trở lên về cừu và len trong tổng thu nhập của họ. Đã có một sự điều chỉnh trong tỉ lệ các loại cừu, theo đó tỉ lệ cừu cái đã gia tăng hơn trước, và ở một số vùng có sự thay đổi quan trọng trong việc chuyển sang nuôi cừu chất lượng cao.

Tại New Zealand : ở New Zealand nơi cừu đông hơn người, New Zealand cũng nổi tiếng với những cánh đồng nuôi thả cừu rộng bao la, là đất nước của lông cừu và bò sữa. Tại đảo Nam New Zealand, nông dân dùng chó để chăn cừu. Ở đây, những chú chó được huấn luyện để dẫn đường và điều khiển cả một đàn cừu đông đúc như một người chủ thực sự. Những chú chó này được người dân New Zealand xem như di sản quốc gia, cần được gìn giữ. Khoảng 1/4 dân số New Zealand là nông dân. Họ sở hữu rất nhiều đất đai canh tác và nguồn thu nhập không lồ từ việc xuất khẩu các mặt hàng như bơ, sữa, bò, cừu… ở Woolly Shirelings, vùng đất nông trại ở Matamata, New Zealand. Vùng đất này nay đã nuôi lên đến 12.000 con cừu.

Đàn cừu ở Tân Tây Lan

Tại Indonesia : ở Indonesia việc chăn nuôi gia súc nhai lại nhỏ là một nghề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp ở Indonesia. Có tới 55% nông dân nước này chăn nuôi dê, cừu ở các quy mô và phương thức khác nhau, dê, cừu vẫn là vật nuôi được phổ biến và là sự lựa chọn của đa số nông dân Indonesia, chăn nuôi dê, cừu quay vòng nhanh, có mức đầu tư không cao. Chăn nuôi cừu cũng khá phát triển, từ 7,811 triệu con năm 2003 lên 9,860 triệu con năm 2007. Chăn nuôi dê, cừu chủ yếu phát triển ở các tỉnh Đông Java, Tây Java, Trung Java, chiếm khoảng 63% tổng đàn dê, cừu toàn quốc.

Năm 2007, sản xuất thịt cừu đạt 84,763 tấn, thịt cừu chủ yếu được sản xuất ở tỉnh Tây Java, chiếm 57% tổng sản lượng thịt cừu. Có khoảng 3 giống cừu được chăn nuôi ở là giống đuôi to, đuôi nhỏ và giống Garut. Các phiên chợ giống dê, cừu thường được tổ chức chung với các giống vật nuôi khác như trâu, bò, gia cầm, lợn… vào 2 ngày mỗi tuần, thường là thứ ba và thứ bảy ở tất cả các huyện. Thu nhập từ chăn nuôi dê, cừu chiếm khoảng 20 – 30% tổng thu nhập của nông dân.

Tại Trung Quốc : Trung Quốc cũng là nơi chăn nuôi nhiều cừu. Khu Tự trị Nội Mông miền tây Trung Quốc là nơi tập trung sinh sống của người dân chăn nuôi dân tộc Mông Cổ, họ sống gần đồng cỏ và hồ ao, sống cuộc sống du mục truyền thống. Tuy nhiên, từ thế kỷ trước đến nay, môi trường thảo nguyên mà người dân chăn nuôi lâu nay sinh sống bắt đầu xấu đi, diện tích thảo nguyên cũng giảm dần. Để bảo tồn thảo nguyên, phòng chống và trị lý bão cát, trồng cây gây rừng đã trở thành công tác quan trọng của người dân chăn nuôi địa phương. Bão cát liên miên không những khiến cuộc sống cơ bản của người dân chăn nuôi địa phương không được đảm bảo, mà còn khiến họ dần dần mất đi thảo nguyên lâu nay sinh sống. Chỉ có hơn 130 héc-ta chăn thả được, một năm chỉ nuôi được khoảng 200 con cừu, môi trường cũng không tốt Việc nuôi cừu cũng có nhiều rủi ro chẳng hạn như một gia đình chăn nuôi ở Trung Quốc phải đi nhặt xác những con cừu sau khi chúng bị sét đánh chết Đàn cừu bị sét đánh chết khi đang trú dưới gốc cây thông. Sự việc xảy ra khi đàn cừu đang tập trung trú mưa dưới gốc cây thông ở huyện tự trị dân tộc Mông Cổ Hoboksar tại Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nghĩ Tân Cương của Trung Quốc.

Tại Anh : Anh là quốc gia nổi tiếng với việc chăn nuôi cừu. Khó khăn trong việc chăn nuôi cừu là mùa đông, có ghi nhận một mùa động bao phủ các khu vực rộng lớn kéo dài lên tận Scotland ở miền bắc bằng một màu trắng xóa của tuyết. Người chăn cừu tìm cách giải cứu cho cừu bị kẹt trong tuyết. Hằng năm, cuối tháng 3, đầu tháng 4 đã là thời điểm nước Anh sang xuân để chuẩn bị đón nhận thời tiết ấm áp nhưng mùa đông đột ngột kéo dài khiến cho nông dân dù đã quen với việc chăn nuôi cừu trong thời tiết giá lạnh cũng trở tay không kịp. Chăn nuôi cừu 40 – 50 năm nay nhưng nếu mùa đông thời tiết giá lạnh đến đúng thời điểm đàn cừu dễ bị tổn thương nhất, bởi chúng đang ở giai đoạn cuối của thời kì mang thai, đầu thời kì sinh sản.

Nhờ được bảo vệ bởi lớp lông dày nên những con cừu cái còn có khả năng sống sót. Nhưng cừu non vẫn còn quá yếu ớt. Thậm chí dù đã được bảo vệ bằng các phương tiện hiện đại, như áo nhựa sưởi ấm, chúng vẫn gục ngã. cừu non chỉ có thể sống trong khoảng nửa giờ đồng hồ trong điều kiện giá lạnh, trong khi tuyết rơi dày đến nỗi nhiều con bị chôn vùi hoàn toàn dưới tuyết. Nông dân đã được cảnh báo không chăn thả cừu ở ngoài trời để tránh rét. Nhưng nếu nuôi chúng trong chuồng, chủ trang trại sẽ phải tốn thêm khoảng 5 bảng (khoảng 155.000 đồng) tiền rơm và cỏ cho mỗi con. Bên cạnh đó, các trang trại vẫn thiếu phòng riêng cho cừu sinh sản. Đây là khó khăn chung của những hộ chăn nuôi cừu nhỏ lẻ, hàng ngàn con cừu đã chết trong đợt giá lạnh bất thường

Tại Việt Nam : Ngành chăn nuôi cừu ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở vùng Ninh Thuận. Cừu đã có mặt ở Ninh Thuận từ khá lâu và thời gian gần đây, nghề chăn nuôi cừu mới thực sự phát triển nhờ đầu ra bắt đầu ổn định. Cừu là loài vật nuôi không có nguồn gốc từ Việt Nam. Thời Pháp thuộc, các giáo sĩ đi truyền đạo đã đưa các con cừu từ Ấn Độvà Pakistan vào Ninh Thuận để nuôi. Nó thích ứng dần rồi trở thành loài vật nuôi riêng cho vùng đó. Ninh Thuận có khí hậu khắc nghiệt nhất nước, nắng nóng quanh năm, song lại là điều kiện thuận lợi để cừu phát triển. Cừu là vật nuôi có mặt từ rất sớm trên vùng đất Ninh Thuận, riêng giống cừu được dân tộc Chăm du nhập từ Ấn Độ cách đây trên trăm năm.

Chăn nuôi cừu ở Ninh Thuận

Ban đầu nhập nội với mục đích nuôi phục vụ cúng tế trong các lễ hội truyền thống của người Chăm và con cừu đã nhanh chóng thích nghi với vùng đất này. Ơ Ninh Thuận, dân tộc Chăm nuôi cừu nhiều. Tổng đàn cừu ở Ninh Thuận lên đến gần 83.000 con, tập trung tại các xã Bắc Phong (huyện Thuận Bắc), Phước Nam (huyện Thuận Nam), Xuân Hải (huyện Ninh Hải). Cừu là vật nuôi của người nghèo, đặc biệt là các hộ gia đình người dân tộc, giá giống không quá cao, chỉ khoảng trên 2 triệu đ/con. Nông dân chỉ cần khoảng 10 triệu đồng là đã có 5 con giống, sau vài năm nhân đàn là đã có vài chục con và từ đây có thể thoát nghèo bền vững.

Từ ban đầu số lượng vài ngàn con, sau hơn chục năm phát triển, có thời điểm tổng đàn dê, cừu ở Ninh Thuận đạt ngưỡng 200.000 con và sau thời kỳ phát triển đã luôn duy trì ổn định khoảng 150.000 con, trong đó cừu chiếm 60 – 70% tổng đàn. Thực tế ở Ninh Thuận đã xuất hiện nhiều trang trại nuôi cừu trị giá hàng tỷ đồng với quy mô từ 300 – 500 con, nhiều hộ dân đã thoát nghèo. Đàn cừu phát triển mạnh là do dễ nuôi, ít bị bệnh, giá cả tốt. Thời điểm giá cừu đắt, phải bỏ ra khoảng 7 triệu đồng để mua một con cừu nái, nhưng nếu nó đẻ được cặp cừu con đều là cái thì người nuôi sẽ thu hồi vốn. Các năm 2009, 2010, giá cừu giống cao đến mức từ 7-8 triệu đồng/con. Người nuôi cừu ở Ninh Thuận còn thiệt thòi khi nuôi cừu chủ yếu chỉ để lấy thịt, chứ chưa tận dụng hết những sản phẩm có giá trị kinh tế như da và lông. Và ngay cả thịt cừu thương phẩm chủ yếu xuất ra thị trường ngoài tỉnh, chứ ở tại các chợ Ninh Thuận, ít ai bán thịt cừu.

Với giá con giống chỉ khoảng trên 2 triệu đ/con. Nếu nông dân không có nhiều vốn thì chỉ cần khoảng 10 triệu đồng là đã có 5 con giống, sau vài năm nhân đàn là đã có vài chục con và từ đây có thể thoát nghèo bền vững. Từ năm 2009 đến nay khi thịt dê, cừu đã trở nên phổ biến là thực phẩm thông thường được tiêu thụ mạnh trong và ngoài tỉnh, giá thịt cừu từ 90.000 đến trên 100.000 đồng/kg, người nuôi cừu rất phấn khởi. Thịt cừu có hương vị rất đặc sắc. Có người không quen nhưng nhiều người lại thích thịt cừu, nhất là các du khách châu Âu, khách Ả Rập. Cừu có thể chế biến ra nhiều món như: Nướng, luộc, xào, xông khói, làm chả, nấu cari hoặc nấu lẩu…

Ở Việt Nam có giống cừu Phan Rang có thể coi là giống cừu duy nhất ở Việt Nam hiện nay. Giống cừu Phan Rang là một giống cừu được hình thành hơn 100 năm nay. Trải qua những điều kiện khí hậu nắng nóng gần như quanh năm, dưới sự tác động của chọn lọc tự nhiên và nhân tạo, giống cừu Phan Rang đã thích nghi cao với điều kiện sinh thái của Ninh Thuận, là giống cừu duy nhất ở Việt Nam hiện nay. Tuổi trưởng thành bình quân con cái nặng 39 kg, con đực 43 kg. Khoảng cách lứa đẻ 8 tháng (3 lứa trong 2 năm) Chúng chịu được điều kiện khô, nóng khốc liệt ở đây. Nó hơn hẳn cả dê và bò. Với khí hậu nắng nóng quanh năm, lượng mưa thấp, chỉ kéo dài khoảng 3 tháng (từ tháng 9 – 11 hàng năm) nên tỉnh Ninh Thuận rất thích hợp để cừu sinh trưởng và phát triển.

Con cừu có một đặc tính hơn hẳn các loài khác, đó là sự chịu khó. Giữa cái nắng như đổ lửa, các loài khác đều tìm chỗ có bóng mát để trú thì đàn cừu vẫn tha thẩn trên đồng, trên những gò cát trơ trụi, nóng bỏng. Chúng cần mẫn gặm từng ngọn cỏ mới lún phún nhô lên. Vào mùa khô, khi không còn một loại cỏ nào có thể nhú lên được, cừu nhai cả các lá xương rồng to bằng bàn tay và chi chít gai. Từ ban đầu số lượng vài ngàn con, sau hơn chục năm phát triển, tổng đàn cừu ở Ninh Thuận duy trì ổn định khoảng 90.000-100.000 con.

Tuy nhiên, hiện nay vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra đang là yếu tố chủ yếu quyết định nghề chăn nuôi cừu tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy, các tỉnh miền núi phía Bắc, cừu đã được nuôi thích nghi và phát triển tốt, nhưng do tập quán tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi cừu ở các tỉnh phía Bắc còn nhiều hạn chế, nên nghề chăn nuôi cừu chưa phát triển. Ở các tỉnh miền Trung như Ninh Thuận, Bình Thuận… mặc dù môi trường sinh thái chưa phải là môi trường lý tưởng đối với cừu, nhưng nhờ có thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ở các tỉnh phía Nam, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh rất tốt, nên nghề chăn nuôi cừu tồn tại và phát triển hơn 100 năm nay.

Điều đó cho thấy, tầm quan trọng của thị trường tiêu thụ đối với ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi cừu nói riêng. Những năn gần đây, do đời sống kinh tế xã hội được nâng lên, nên nhu cầu tiêu thụ thực phẩm chất lượng cao tăng lên đáng kể, trong đó có thịt cừu, được coi là những sản phẩm quý hiếm, chất lượng cao, thơm ngon và bổ dưỡng. Thịt trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi cừu phong phú, đa dạng và rất ổn định, không chỉ trước mắt mà còn lâu dài, hiện còn rất khan hiếm, kể cả tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

Các giống cừu

Có hơn 200 giống cừu tồn tại được tạo ra để phục vụ cho những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, vài trăm giống cừu đã được xác định bởi các FAO (Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc), với số lượng ước tính khác nhau một chút về thời gian: ví dụ như 863 giống như năm 1993, 1314 giống như năm 1995 và 1229 giống như năm 2006.  Các tính năng khác sử dụng khi phân loại cừu bao gồm màu sắc khuôn mặt (thường có màu trắng hoặc đen), chiều dài đuôi, sự hiện diện hay thiếu sừng, và địa hình mà giống này đã được phát triển. Điểm cuối cùng này được đặc biệt nhấn mạnh ở Anh, nơi mà giống được mô tả như là một trong hai vùng cao (đồi hoặc núi) hoặc giống thấp.Giống thường được phân loại theo các loại len của họ. Giống len Mỹ là những người có lông của uốn lớn và mật độ, được ưa thích cho hàng dệt may. Hầu hết trong số này được bắt nguồn từ Merino cừu, và loài này tiếp tục thống trị ngành công nghiệp cừu thế giới. Downs giống có len giữa những thái cực, và thường phát triển nhanh thịt và giống với khuôn mặt tối. Một số giống len vừa lớn, chẳng hạn như các Corriedale. Giống len dài là lớn nhất của con cừu, len dài và tốc độ chậm tăng trưởng. Cừu len dài có giá trị nhất để lai để cải thiện các thuộc tính của các loại cừu khác. Ví dụ: người Mỹ Columbia loài này được phát triển bởi qua Lincoln đực (một giống chó lông dài) với tinh wooled Rambouillet cừu cái.

Do nhu cầu về len thảm chất lượng giảm, một số nhà nhân giống của loại cừu đang cố gắng sử dụng một vài trong số những giống truyền thống cho các mục đích khác.

Một số giống cừu phục vụ lấy sữa. Giống Dual chủ yếu lấy thịt hoặc lông cừu thường được sử dụng như động vật vắt sữa, nhưng có một vài giống được sử dụng chủ yếu cho vắt sữa. Những con cừu làm sản xuất một số lượng cao của sữa và có đường cong hơi dài cho con bú. Trong các chất lượng sữa, chất béo và hàm lượng protein của họ tỷ lệ phần trăm của giống cừu sữa và giống không sữa.

Một nhóm cuối cùng của giống cừu là cừu tóc. Cừu tóc tương tự như những con cừu thuần đầu lưu giữ trước khi giống len đã được phát triển, và được nuôi để lấy thịt và những tấm da. Một số giống hiện đại của cừu tóc, chẳng hạn như các Dorper , là kết quả của phép lai giữa giống len và tóc. Cho thịt và ẩn các nhà sản xuất, cừu tóc là rẻ hơn để giữ lại, vì họ không cần cắt. cừu tóc cũng nhiều khả năng chống ký sinh trùng và thời tiết nóng.

Chế Độ Ăn

Cừu là động vật ăn cỏ, hầu hết các giống thích gặm cỏ ngắn và thức ăn thô, tránh các phần gỗ cao của cây mà dê dễ tiêu thụ. Cả cừu và dê sử dụng của môi và lưỡi để chọn các bộ phận thức ăn để dễ dàng tiêu hóa. Giống như tất cả các động vật nhai lại, cừu có một phức hệ tiêu hóa gồm bốn ngăn, cho phép nó phá vỡ cellulosetừ thân, lá, và hạt giống hulls thành carbohydrate . Khi cừu gặm cỏ, thảm thực vật nhai thành một khối gọi là một bolus, sau đó được chuyển vào dạ cỏ, thông qua lưỡi. Dạ cỏ từ 19- 38 lít (5-10 gal) phần mà thức ăn được lên men. Các sinh vật lên men bao gồm vi khuẩn, nấm, động vật nguyên sinh. Các bolus được định kỳ nhả ra lại vào miệng như cud để nhai bổ sung và tiết nước bọt . Cừu nhai là một sự thích nghi cho phép động vật nhai gặm cỏ một cách nhanh chóng hơn vào buổi sáng, và sau đó nhai đầy đủ và tiêu hóa thức ăn sau đó trong ngày.
Nguồn: tiendat123

Blog Người Chăn nuôi là một trang web phi lợi nhuận, dành cho người nông dân, chuyên tổng hợp, chia sẻ những kinh nghiệm, kiến thức về con giống, bệnh, kỹ thuật chăn nuôi.

Bạn có thể gửi các câu hỏi, vướng mắc của mình dưới form sau để chúng tôi trợ giúp. Trong khả năng của mình, chúng tôi sẽ liên hệ lại và luôn sẵn lòng giải đáp và chia sẻ kinh nghiệm của mình.

    Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm các tài liệu sau:

    – Thư viện Kiến thức Chăn nuôi: TRUY CẬP NGAY

    – Chuyên mục Bản tin nông sản hàng tuần: TRUY CẬP NGAY

    – Ấn phẩm Người Chăn nuôi xuất bản hàng tháng: TRUY CẬP NGAY

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *